Hiển thị các bài đăng có nhãn TIN TỨC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TIN TỨC. Hiển thị tất cả bài đăng
Công ty Tâm Đức là công ty tang lễ với hơn 10 năm kinh nghiệm trong nghành nghề dịch vụ tang lễ trọn gói tại tỉnh Thanh Hóa, thời gian vừa qua đã tiếp nhận thông tin từ một số thông tin từ các khách hàng về tình trạng mạo danh công ty tang lễ Tâm Đức nhằm để ký hợp đồng tang lễ qua đó tăng giá phí dịch vụ và cung cấp các sản phẩm có chất lượng không tốt gây ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của công ty.

Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi mạo danh bằng cách liên hệ với khách hàng và tự nhận mình là người của công ty Tâm Đức, có nhiều trường hợp còn chủ động mang "Áo quan" đặt tại nhà khách hàng để lỡ nếu có bị phát hiện thì khách hàng cũng ngần ngại trong việc hủy hợp đồng cũ.
Các đối tượng này thường là những cá nhân làm ăn chộp giật, không có công ty và thương hiệu, họ thường tự đứng ra nhận và kêu gọi mỗi nơi 1 vài người làm việc thiếu chuyên nghiệp dẫn đến khách hàng không hài lòng với dịch vụ tang lễ nhưng "lực bất tòng tâm" vì đã triển khai các thủ tục tang lễ...
canh bao hanh vi mao danh cong ty tai chinh chiem doat tien hinh 1
Các đối tượng mạo danh công ty Tâm Đức đến mạo danh ký hợp đồng lừa đảo khách hàng. (Ảnh minh họa)
Nhằm ngăn chặn tình trạng khách hàng bị lừa đảo khi ký hợp đồng, công ty tang lễ Tâm Đức khuyến cáo khách hàng nên xác minh kỹ thông tin của người đến ký hợp đồng thông qua số điện thoại của công ty.
Khách hàng không nên thực hiện việc ký hợp đồng thông qua các môi giới "Cò", chỉ thực hiện tại các điểm giới thiệu dịch vụ của Công ty (người tiêu dùng có thể tham khảo thông tin này trên trang web hoặc tổng đài của công ty, chỉ tiếp nhận thông tin tư vấn từ số máy bàn của công ty hoặc tổng đài, hạn chế tiếp nhận thông tin tư vấn từ số điện thoại di động không rõ nguồn gốc.


Vì vậy Công Ty Tang Lễ Tâm Đức khuyến cáo, đi kèm với sự phát triển của công nghệ thông tin, các hình thức làm giả, mạo danh ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Do vậy, khách hàng cần chủ động nâng cao cảnh giác khi tiếp cận các thông tin; thường xuyên có thói quen kiểm tra lại thông tin trước khi tiến hành giao dịch. Cùng với đó, khách hàng cần chủ động chia sẻ và trao đổi các thông tin cảnh báo để bạn bè, người thân có thể biết và phòng ngừa./.
Vậy nên công ty Tâm Đức chỉ dùng các số tổng đài và địa chỉ duy nhất sau đây (nếu có các chuyên viên tư vấn khác sẽ được sự xác nhận từ công ty ) 
√ CÔNG TY TÂM ĐỨC - DỊCH VỤ TANG LỄ TRỌN GÓI
Trụ sở chính : Nhà tang lễ tỉnh Thanh Hóa-Đường Nam bệnh viện Nhi - Phường Đông Vệ - TP.Thanh Hóa
- Tel: 0943907399 - Fax:02373.855625
Email: congtytamduc.th@gmail.com
- Fanpage: https://www.facebook.com/dichvutangletamducthanhhoa/


Hỏa táng có ảnh hưởng đến vấn đề tái sinh và phước đức con cháu?

Thân tứ đại là đất, nước, lửa, gió, khi đã trút hơi thở cuối cùng thì cũng trở về với tứ đại, chẳng còn gì để suy viễn ở tương lai. Chỉ có chú trọng vào nghiệp thức, để khuyến cáo người đời lánh xa các điều ác, thực hiện các việc lành, tái sinh vào cõi thánh thiện. Nên lúc nào cũng khuyến khích các gia đình thiêu xác chết, quan trọng là chỗ phụng thờ, nhưng vì thời điểm chưa phù hợp nên người phật tử chưa thực hiện đó thôi. Thật ra việc thiêu xác chết không ảnh hưởng gì đến gia đình, con cháu hiện tại cũng như kiếp lai sinh.


HỎI: Con có đi thăm viếng một số nước cũng như chùa chiền, kể cả nghĩa địa một số nơi và thú thật con thấy ở các nước giàu có, người ta rất biết tôn trọng môi trường nên các khu an táng nghĩa địa rất đơn giản. Các khu mộ gần như là đất bằng, chỉ có tấm bia và hoa trồng xung quanh như các công viên, không lăng tẩm, không mồ mả gì cả, không làm mọi người sợ hãi. Nhiều nước như ở Hàn Quốc hay Nhật Bản, con thấy chẳng có gì cả, bình thường, không nghi lễ cầu kỳ. Trông người mà ngẫm đến ta thấy rằng người ta biết tiết kiệm cho đất nước rất nhiều tiền của, bảo vệ môi trường bị xâm hại vì vấn đề thế giới bên kia.

Ngược lại ở Việt Nam và Trung Quốc, ai chết cũng ráng chôn cất lăng mộ thật nguy nga, vĩ đại. Ở Việt Nam của mình như vài nơi ở Huế, vào các khu lăng mộ cứ như vào chốn cung đình với suy nghĩ sống sao thác vậy và toàn vì suy nghĩ của người còn sống cạnh tranh lẫn nhau, đổ tiền của cho quá nhiều chuyện vô ích trong khi người sống thì lại chẳng có đất để sống, có tiền để dùng. Bản thân con khi mất đi, con muốn chết đi được thiêu xác rồi rải ra các gốc cây cho cây được tốt, như vậy khỏi phiền đến ai và để bảo vệ môi trường hoặc không chôn con dưới gốc cây nào đó cũng được, không tốn hòm tốn gì cả. Giữa hai cách chết này, có nhiều người bảo đều không tốt, nhất là không nên thiêu xác thì như thế sẽ ảnh hưởng đến vấn đề tái sinh, ảnh hưởng đến con cháu sau này. 

Con chẳng hiểu tại sao lại như vậy vì ngày xưa chính đức Phật khi mất đi cũng được hỏa thiêu? Xin Sư cho con biết con nên làm như thế nào cho đúng?


ĐÁP:

Đứng về góc độ văn hóa của một dân tộc rất quan trọng, quan niệm người xưa “sự sinh như sự tử”, trước khi nhà vua băng hà đã cho xây cung điện lâu đài dưới âm cung (lòng đất) đem một phần tài sản của triều đình đặt sẵn dưới âm cung, rồi đến các quan đại thần, dân tình cũng làm theo để bảo vệ danh gia vọng tộc… chuẩn bị cho cái chết thật chu đáo để khi về bên kia thế giới tiếp tục tận hưởng. Đối với người nghèo, hoặc giàu mà tiếc của, bỏn sẻn, hoặc sợ lãng phí tài sản… thì làm lâu đài, villa bằng giấy, xe ôtô giấy, tivi giấy, vàng bạc giấy, đô la giả (đồ vàng mã)… đốt mang theo để sử dụng, hoặc báo ân báo hiếu cho người chết. 

Đó là việc làm vô cùng tốn kém cho gia đình nhưng họ vẫn làm. Huống chi là việc làm nhà mồ, mồ mả quy mô dành cho người “chết” tiếc gì mà không làm! Thật là việc làm giả tạo vô cùng! Có gia đình dành phần xây mồ mả cho người “chết” chẳng qua là để “xí phần” của hương quả, tài sản của người chết để lại, chứ chẳng phải hiếu nghĩa gì đâu?

Sự việc ngày nay một vài địa phương Việt Nam tập trung tiền của xây nhà mồ thật to, thật tốn kém, họ nghĩ tốn kém nhiều chừng nào tốt chừng đó. Hiện tượng này chẳng qua là những cuộc phấn đấu của những người xưa kia nghèo, thua sút người khác, nay có tiền xây nhà mồ cho ông bà để được bù đắp, thỏa dạ bình sinh, vậy thôi!

Việc sinh và việc tử ở mỗi địa phương đều có quan niệm khác nhau, như ở Ấn Độ, đạo Bà La Môn thì đem xác người chết bỏ trôi sông, hoặc thiêu rồi vứt xuống dòng sông Hằng linh thiêng, hay rải tro than xuống biển cho người chết được siêu thoát, gọi là “thủy táng”. Đạo Parsi (bái hỏa giáo) lập đài cao vút giữa tầng không, khi có người chết đem lên đài để cho xác thân tự rã, hoặc thiêu rồi đem lên phi cơ rải trong hư không gọi là “không táng”. Ở Tây Tạng thì đem xác chết mổ xẻ từng mảnh, rồi “bằm nhỏ” cho kênh kênh, diều, quạ ăn, gọi là “điểu táng”. Ở Trung Hoa và Việt Nam thì chôn cất xây mồ mả, to hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh tiền bạc, đất đai của gia đình hay của người chết, gọi là “thổ táng”.

Thật ra thì quốc gia nào cũng có làm việc chôn cất người “chết”, chôn cất thật kỹ lưỡng, tránh việc làm ô nhiễm môi trường, đó là quy luật chung của đời sống con người trên hành tinh.

Việc thiêu xác chết, thiết kế các nghĩa trang dành cho người chết có mỹ quan như ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan là việc làm của các quốc gia đông dân thiếu đất, sinh nhiều hơn tử, các quốc gia tiến bộ. Các xứ theo Phật giáo Nam tông và Việt Nam hiện nay thì thiêu xác gửi vào chùa. Ở Quan Âm Tu viện nhận hàng ngàn hủ tro cốt, linh vị vong linh của phật tử trong và ngoài nước đưa vào tu viện phụng thờ, có đính số thứ tự trên hủ cốt, lập sổ danh bộ vong linh, giúp thân nhân mỗi năm đến cúng lễ dễ dàng nhận ra linh cốt của người thân.

Đối với nhà Phật

Thân tứ đại là đất, nước, lửa, gió, khi đã trút hơi thở cuối cùng thì cũng trở về với tứ đại, chẳng còn gì để suy viễn ở tương lai. Chỉ có chú trọng vào nghiệp thức, để khuyến cáo người đời lánh xa các điều ác, thực hiện các việc lành, tái sinh vào cõi thánh thiện. Nên lúc nào cũng khuyến khích các gia đình thiêu xác chết, quan trọng là chỗ phụng thờ, nhưng vì thời điểm chưa phù hợp nên người phật tử chưa thực hiện đó thôi. Thật ra việc thiêu xác chết không ảnh hưởng gì đến gia đình, con cháu hiện tại cũng như kiếp lai sinh.
 
Hòa thượng Thích Giác Quang
UBND TỈNH THANH HÓA
Số: 5259/2015/QĐ-UBND
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thanh Hóa, ngày 14 tháng 12 năm 2015
QUYẾT ĐỊNH
            Về việc ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ chi phí khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
___________________

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Luật Ngân sách Nhà nước (sửa đổi) ngày 16 tháng 12 năm 2002; Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước; Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước;
Căn cứ Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 tháng 11 năm 2005; Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm ngày 21 tháng 11 năm 2007;
Căn cứ Nghị định số 35/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ về việc: “ Xây dựng, quản lý, sử dụng nghĩa trang”; Quyết định số 308/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc: “Ban hành kèm theo Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội”; Quyết định số 2282/QĐ-TTg ngày 26/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc: “Phê duyệt Đề án khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng”; Thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21/01/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc: “Quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội”;
Căn cứ Nghị quyết số 153/2015/NQ-HĐND ngày 11/12/2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa Khóa XVI, kỳ họp thứ 15 về việc: “Ban hành chính sách khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ chi phí, khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa như sau:
I. Đối tượng áp dụng
Người có hộ khẩu thường trú, tạm trú tại tỉnh Thanh Hóa và người vô thừa nhận chết trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa sử dụng hình thức hỏa táng thì thân nhân, tổ chức (chịu trách nhiệm mai táng cho người chết) được hưởng chính sách khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng.
II. Mức hỗ trợ
Mức hỗ trợ cụ thể cho từng đối tượng quy định như sau:
1. Hỗ trợ 100% chi phí hỏa táng theo mức giá của cơ sở hỏa táng (không bao gồm chi phí vận chuyển) cho người mắc bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật.
2. Hỗ trợ 3.000.000,0 đồng đối với người từ đủ 10 tuổi trở lên (từ 120 tháng tuổi trở lên, không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1, Mục II, Điều này).
3. Hỗ trợ 2.000.000,0 đồng đối với người dưới 10 tuổi (dưới 120 tháng tuổi, không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1, Mục II, Điều này).
III. Thủ tục thực hiện
1. Thành phần hồ sơ:
a) Tờ khai thông tin cá nhân, tổ chức nhận kinh phí hỏa táng (theo mẫu).
b) Bản sao Giấy chứng tử của người được hỏa táng (trường hợp bản sao không phải là bản sao cấp từ sổ gốc hoặc bản sao có chứng thực thì phải xuất trình bản chính để đối chiếu).
c) Bản chính hóa đơn đã được thanh toán của cơ sở hỏa táng theo quy định của Bộ Tài chính (trường hợp bản chính hóa đơn bị mất hoặc hư hỏng không thể sử dụng được thì phải nộp giấy xác nhận của cơ sở hỏa táng, ghi đầy đủ nội dung theo hóa đơn đã được thanh toán như người nộp tiền, người thu tiền, số tiền nộp, số biên lai, ngày nộp tiền...);
d) Bệnh án, kết luận của cơ quan có thẩm quyền đối với đối tượng quy định tại khoản 1, Mục II, Điều 1.
e) Văn bản ủy quyền  hoặc giấy giới thiệu theo quy định (áp dụng đối với các trường hợp thực hiện theo ủy quyền hoặc thông qua tổ chức, đoàn thể theo quy định của pháp luật).
2. Số lượng hồ sơ: 01 bộ.
3. Cách thức thực hiện.
3.1. Đối với các đối tượng mà thân nhân được hưởng chính sách hỗ trợ từ nguồn kinh phí giao cho địa phương quản lý sẽ thực hiện như sau:
a) Thân nhân thực hiện mai táng cho đối tượng làm 01 (một) bộ hồ sơ theo quy định tại Khoản 1, Mục III, Điều 1 gửi Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND xã) nơi đối tượng cư trú.
b) Trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch UBND xã kiểm tra tính chính xác của các thông tin và thực hiện phần xác nhận trên Tờ khai, trường hợp xác định không thuộc đối tượng được hỗ trợ hoặc chưa đảm bảo theo quy định thì Chủ tịch UBND xã có văn bản trả lời và gửi hồ sơ cho đối tượng hoặc hướng dẫn đối tượng sửa đổi, bổ sung hồ sơ hợp lệ. UBND xã tập hợp, kiểm tra các hồ sơ phát sinh hàng tháng, gửi phòng Lao động, Thương binh và Xã hội cấp huyện vào các ngày từ 25 đến 30 hàng tháng để thẩm định.
c) Trong vòng 03 (ba) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Phòng Thương binh và Xã hội cấp huyện  thẩm định trình Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành Quyết định hỗ trợ chi phí hỏa táng hoặc phê duyệt (nếu được Chủ tịch UBND cấp huyện ủy quyền). Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời gian 01 ngày làm việc có văn bản trả lại hồ sơ cho UBND xã (có hồ sơ kèm theo) để trả hồ sơ cho đối tượng hoặc hướng dẫn đối tượng sửa đổi, bổ sung hồ sơ.
d) Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày ban hành Quyết định hỗ trợ chi phí hỏa táng giao cho các cơ quan, tổ chức đó quản lý thì các cơ quan, tổ chức sử dụng nguồn kinh phí đã giao trong dự toán để thực hiện. Thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm lập và phê duyệt hồ sơ theo quy định tại Quyết định này.
IV. Kinh phí, thời gian thực hiện
1. Kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ được bố trí từ nguồn ngân sách tỉnh trong dự toán hàng năm.
2. Thời gian thực hiện: Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2020.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài chính và các sở, ngành có liên quan tổ chức triển khai, hướng dẫn thực hiện các quy định tại Quyết định này.
2. Sở Tài chính tổng hợp, cân đối, bố trí kinh phí hỗ trợ chi hỏa táng trong dự toán ngân sách tỉnh hàng năm để trình duyệt, quyết toán kinh phí thực hiện theo quy định hiện hành. Thực hiện phối hợp kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng nguồn kinh phí tại các đơn vị.
3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp Đài phát tranh và Truyền hình tỉnh, các cơ quan có liên quan tuyên truyền, vận động người dân tham gia sử dụng hình thức hỏa táng, chính sách khuyến khích hỏa táng gắn với việc tuyên truyền thực hiện Thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21/01/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về việc: “Thực hiện nếp sống văn minh trong tiệc cưới, việc tang và lễ hội”.
4. Các cơ quan, tổ chức thực hiện bảo trợ xã hội hàng năm lập dự toán hỗ trợ chi phí hỏa táng cùng với dự toán thu chi ngân sách nhà nước của đơn vị gửi Sở Tài chính thẩm định, trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt.
5. UBND huyện, thị xã, thành phố có trách nhiệm:
a) Hàng năm, UBND các huyện, thị xã, thành phố lập dự toán hỗ trợ chi phí hỏa táng cùng với dự toán thu chi ngân sách nhà nước của địa phương, gửi Sở Tài chính thẩm định, trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt.
b) Chỉ đạo các đơn vị phòng, ban tổ chức triển khai và thực hiện các quy định tại Quyết định này, đảm bảo giải quyết thủ tục hành chính đúng thời gian quy định.
c) Chỉ đạo các đơn vị dự trù kinh phí chi hỗ trợ khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng hàng năm cho địa phương.
d) Tổ chức kiểm tra, giám sát việc triển khai, thực hiện cấp phát chi phí hỗ trợ khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng trên địa bàn.
6. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm:
a) Tổ chức triển khai và thực hiện việc tiếp nhận và trả kết quả theo quy định tại Điểm 3.1, Khoản 3, Mục III, Điều 1 của Quyết định này, đảm bảo giải quyết thủ tục hành chính đúng thời gian quy định.
b) Xem xét, thẩm định hồ sơ và thực hiện xác nhận trong Tờ khai thông tin dựa trên cơ sở dữ liệu do địa phương quản lý.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc các sở; Trưởng các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố; Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn; Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Nguyễn Đình Xứng
“Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, ông bà xưa thường nói vậy để khuyên nhủ con cháu, người đời phải kiêng kỵ những điều cấm phạm phải trong tâm linh để tránh gặp những điều bất trắc. Sau đây là những điều kiêng kỵ tâm linh trong cuộc sống hằng ngày, mà có thể bạn chưa biết:
 nhung dieu kieng ky tam linh trong cuoc song hang ngay
1. Những ngôi nhà bằng gỗ khi có máu (cả người hay động vật) bám trên thân gỗ thì nên thay đổi, hoặc không nên ngủ gần đó.
2. Khi đi ngang những con sông, suối, ao, hồ không rõ nguồn gốc tuyệt đối không nên vứt đồ cá nhân mình xuống, nếu vô tình bị rớt mà có thể lấy lại được thì nên lấy lại.
3. Lúc ngủ ko nên quay chân hoặc quay đầu ra cửa (tư thế dành cho người chết). Tuyệt đối không quay chân vào bàn thờ (bất kính với bề trên).
4. Trong nhà có người chết vì treo cổ tự tử, thì khi lấy xác xuống, hãy lấy sợi dây đó đốt ngay. Bởi quan niệm của người xưa, đó là “sợi dây oan nghiệt”, nếu không đốt đi thì nó vẫn luẩn quẩn quanh nhà và sẽ có người chết vì tự tử.
5. Sau khi an táng người chết, trong vòng 1 tháng, ban đêm nếu có ai gọi tên mình thì tuyệt đối không được trả lời, không được mở cửa, không được thưa gởi gì hết.
6. Nếu đi đám ma, lỡ người quá cố ấy có xinh gái hay đẹp trai thì không được khen.
7. Người nào có tang (khăn tang) trong người thì không nên tới nhà những người bạn hay người thân vì sẽ “lây” cái tang và đem điều không may đến cho họ.
8. Khi đi đến qua những nơi vắng vẻ, không ngoái cổ quay đầu nhìn lại phía sau, dù có cảm giác “hình như” có người đang đi theo mình hoặc gọi tên mình.
9. Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường.
10. Không cắm đũa đứng giữa bát cơm, vì đó là hình thức cúng tế, cũng giống như kiểu thắp hương, dễ dẫn dụ ma quỷ vào nhà ăn chung.
 nhung dieu kieng ky tam linh trong cuoc song hang ngay
Cắm đũa trong bát cơm là một trong những điều kiêng kỵ tâm linh trong cuộc sống hằng ngày, mà có thể bạn chưa biết:
11. Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi người xưa quan niệm rằng ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ “vô hình” vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt.
12. Không nên phơi quần áo trong phòng ngủ hay trong nhà ban đêm => tạo điều kiện cho hồn ma vào nhà trú ngụ, thổ địa không nhìn ra được.
13. Không may vá, mua đinh, chải tóc, soi gương vào ban đêm.
14. Không ăn vụng đồ cúng.
15. Đi đường nếu gặp tiền lẻ hay những vật dụng cá nhân của người khác không nên lượm lặt dù là mục đích gì. Thông thường một số người đang gặp hạn người ta giải hạn bằng cách vứt bỏ những thứ ấy xem như vứt bỏ cái xui của họ, nếu mình nhận lấy thì sẽ lãnh lại cho họ.
16. Nếu đi đường khuya vắng không thấy người mà nghe tiếng gọi tên mình thì đừng trả lời.
17. Đừng bao giờ thề thốt hay hứa hẹn với người đã chết rồi không làm.
18.  Vào nghĩa trang không nên bình phẩm, chê khen ảnh, tên, bia mộ người đã khuất.
19. Khi đi dự đám tang về nên hơ người bằng lửa ấm, thay quần áo và hạn chế tiếp xúc với trẻ nhỏ.
20. Những ai cúng giải hạn hằng năm, nơi làm lễ cúng là những ngã ba, tư đường thì trong vòng một năm không nên đặt chân đi ngang qua nơi đó. Vì thế khi chọn nơi cúng hạn nên chọn những nơi ít thường xuyên lui tới nhất.
21. Ai đã lầm lỡ phá bỏ thai nhi con mình thì hãy đặt cho bé cái tên và đem lên chùa gửi.
22. Nếu trước nay chưa cúng cô hồn bao giờ do không có điều kiện thì không cúng luôn, chớ nên cúng rồi lại bỏ.
23. Đi đường gặp người tai nạn thì không nên bình luận. Nếu không thể giúp đỡ, không phận sự, hãy im lặng.
24.  Nhà có con nhỏ không nên cho bé đi viếng nghĩa trang hay dự tang lễ.
25. Đối với phụ nữ, con gái nên hạn chế phơi quần áo ngoài trời vào ban đêm, đặc biệt là đồ nhỏ.
26. Vào ban đêm tránh soi mình dưới mặt nước.
27. Đi trên đường trời tối nên tránh đùa giỡn, gọi tên nhau lớn tiếng và nhắc đến ma qủy, nếu không ma quỷ sẽ ghi nhớ tên người được gọi, đó là điềm xấu.
28. Những vật dụng cá nhân của người đã chết nên chôn theo hoặc đốt bỏ không nên giữ lại để tiếp tục sử dụng.
29.  Tuyệt đối không nên tắm ở những ao, hồ, sông suối đã có tai nạn chết người.
30. Khi đang trong quá trình xây dựng nhà cửa, nếu giữa chủ nhà và thợ xây xảy ra xích mích nên lưu ý kẻo bị họ thư ếm vào nhà. Cách giải: kết thúc thi công, ăn trộm 1 món đồ của họ không để họ biết.
31. Tránh tiếp xúc chơi bùa ngải nếu không hiểu thấu đáo, không nên uống các loại Bùa mà các “Thầy Pháp” cho.
32. Người không quen thân thì đừng tiết lộ ngày tháng năm sinh, giờ sinh, tên tuổi cho họ biết.
33.  Nhà có người mất nên đi xem giờ để tránh trúng giờ độc gây ra hiện tượng trùng tang.
34. Thực hiện làm ăn hay làm những việc mang tính chất đại sự nên xem ngày để tránh nhằm vào ngày Tam Nương.
35. Khi ăn uống nên hạn chế gõ, khua chén đũa.
36.  Phụ nữ có thai hạn chế đi ăn cưới, đi dự đám tang.
37. Không nên hái “lộc” ở những cây cổ thụ um tùm, gần đền, chùa, miếu…
38. Nên mang theo vài tép tỏi bên mình khi đi đường xa để tránh bị kẻ xấu hại bằng bùa ngải.
39. Có câu: Chim sa cá luỵ, thế nên gặp những con vật trong hoàn cảnh đó không nên chiếm hữu nó và đem về nhà.
40.  Buổi tối không chơi năm mười (hay còn gọi là cút bắt).
41. Không treo chuông gió ở đầu giường vì tiếng chuông sẽ thu hút sự chú ý của ma quỷ, khi ngủ sẽ dễ bị chúng xâm nhập quấy phá.
42.  Không hù dọa người khác khiến họ giật mình “hồn bay phách lạc” dễ bị ma quỷ xâm nhập.
43. Cây đa, góc tối là nơi hội tụ âm khí nên kiêng kỵ ngồi hoặc trốn… ở đó.

Tang lễ thường gắn liền với những quy định, nghi thức, thờ cúng, kiêng cữ nhất định. Lễ tang được thực hiện theo những tập quán cổ truyền của dân tộc và thể hiện quan niệm của cộng đồng về cái chết, thế giới người chết, quan hệ giữa người chết và người sống. Có những hình thức mai táng khác nhau tuỳ tập quán của từng nơi, từng cư dân. Một nghi thức tiễn biệt người quá cố theo truyền thống Phật giáo Việt Nam qua các lễ lược như sau:
1 - Trị quan nhập liệm: Một người mất (chết), trút hơi thở cuối cùng. Sau đó ít nhất là 4 giờ, tốt hơn hết là sau 24 giờ, được tắm rửa sạch sẽ, đưa vào một cái hòm gỗ (quan tài) bằng một nghi thức như sau: Dùng một chén nước trong, một cây đèn nến (sáp) gắn vào một cái cây gác trên một góc hòm. Vị gia trì sư dùng tam mật tương ưng (tay kiết ấn, khẩu đọc thần chú, Ý quán tưởng Phật) tẩy sạch quan tài và vật dụng tẩm liệm. Ðưa thi hài vào quan tài. Thi hài thường được mặt một chiếc áo Quan Âm (mền Quang Minh). Theo cổ tục có nơi còn bỏ gạo hay vàng ngọc vào miệng thi thể.

2 - Phục hồn: Thiết lập một bàn thờ Linh có linh ảnh, bài vị, bát nhang. Thỉnh vong linh an vị, để cho thần thức định tỉnh nhận rõ sự việc đang phải lìa thể xác. Vì theo quan niệm thần thức của người mất lúc bấy giờ đang bơ vơ, sợ sệt, chưa ý thức được đang gặp sự việc gì. Theo cổ tục dân tộc có một bát cơm (hai chén úp một), cắm lên hai chiếc đũa và một quả trứng luộc.

3 - Khai kinh - Tiến linh: Thiết lập bàn Phật, thỉnh Phật chứng minh và siêu độ sự ra đi của vong giả. Tụng kinh để hương linh làm tư lương hướng Phật. Khuyến tấn hương linh quy y Phật, dứt nghiệp trần lao.

4 - Phát tang: Ðể cho bà con thân bằng quyến thuộc có cơ hội từ giả biệt luận với vong giả. Một hình thức ghi nhớ ơn đức, hiếu hạnh trong gia tộc. Ðặc biệt trong nghi thức này vị gia trì sư lại dùng tam mật tương ưng chú nguyện vào tang phục và xướng: “Ngũ phục chi nhơn các thọ kỳ phục” trao cho tang gia mặc vào người. Từ giờ phút này mới chính thức báo tang, bà con thân hữu mới thăm viếng với tư cách tang lễ.

5 - Triêu điện: Trong thời gian chưa chôn, các lễ cúng cho hương linh gọi là “điện”. Vậy triêu điện là một lễ cúng buổi sáng gần ngày đưa đám, thường dành riêng cho bà con muốn làm một lễ cúng riêng, đọc ai điếu, lời từ biệt.

6- Tịch điện: Lễ cúng buổi tối gần ngày đưa đám, thường giành cho con cháu nội tộc, để con cháu có cơ hội nói lên ơn nghĩa, những hình ảnh thân thương, tưởng niệm đến công hạnh của người quá cố. Còn thường ngày 3 buổi: sáng cúng trà; trưa, chiều cúng cơm dùng hình thức nghi lễ đơn giản gọi là “tiến linh”.

7 - Triệu tổ: Lễ này thường được cử hành trước ngày di quan khoảng 2 hôm trở lại. Tang quyến thỉnh linh vị, di ảnh, bát nhang đầy đủ lễ vật đến tự đường (nhà thờ họ). Ðặt linh vị trên một cái bàn nhỏ đối diện án thờ gia tiên. Thí dụ án thờ ở phía tây, linh vị ở phía đông, con cháu tang quyến ở phía nam; cất gậy, mũ mấng đi để làm lễ cáo tổ tiên.

8 - Sái tịnh, nhiễu quan và quy y linh: Trong lúc đại chúng đang tụng chú Ðại Bi, vị chủ sám dùng bình Cam Lồ vào tẩy tịnh quan tài, chú Ðại Bi vừa dứt, sám chủ thán: “Giác tánh viên minh, tùng lai trạm tịch; bổn lai nhơn ngã chi huyễn tướng, hà hữu sanh tử chi giả danh? Nhơn tối sơ nhất niệm sái thù, tùng mộng tưởng hữu tư sanh diệt.

Tuy nhiên:

Diệt nhi bất diệt, Tằng Ðạt Ma chích lý Tây quy.
Sanh nhi bất sanh, Nãi Thích Tôn song lâm thị tịch.
Nhược phi nhất nhơn, hiểu liễu nan miễn tứ đại tương man,
Cố nhơn thiên thượng, hữu luân hồi khởi phận, thử đắc vô sanh diệt.
Kim vị tang chủ: . . .        Thống duy:
Hương hồn quyên tam xích chi xu, nhập cữu tuyền chi lộ.
Lâm thời hoảng hốt, phách tán hồn phiêu.
Tuy nhiên, thuận thế gian:
Sanh viết ký, tử viết quy, bất xuất tử sanh chi nội; nãi nhược thăng vu thiên nhi giáng vu địa. Tổng quy lục đạo chi trung, u quan ảm đạm minh tiền đồ, triễn nghiệp lực na năng giải thoát.”
Thỉnh linh yết Phật qui y, thuyết linh.

9 - Cáo đạo lộ: Lễ này thường nhờ một người hộ tang đứng cúng, được cử hành trước một hôm đưa đám, đặt bàn cúng  trước cữa ngõ, ý nghĩa xin hộ đàng cho đám táng được yên ổn thuận lợi. Có gia đình tổ chức lễ cúng thí thực và phóng sanh nữa.

10 - Khiển điện: Lễ này cúng trước khi di quan, thường dành cho bằng hữu tỏ bày tâm sự, tình cảm với hương linh qua điếu văn.

11 - Di quan (động quan): Lễ di chuyển quan tài đi chôn hay hỏa táng, một lễ có nhiều xúc động nhất. Trong lễ này Gia trì sư thường đội nón Tỳ Lư và cầm tích trượng để hướng dẩn hương linh. Sau nghi thức cúng cấp xong, Gia trì sư xướng: - Cung thối, thỉnh bổngg danh sanh,  thần vị, linh ảnh thăng xa.

Triệt linh sàng.

Thán:   Quy khứ lai hề quy khứ lai,

            Tây phương tịnh độ bạch liên khai.

            Nhất trận hương phong xuy hốt đáo,

            Hương linh thừa thử bộ kim giai.

Ngưỡng bạch Di Ðà từ bi phóng quang tiếp độ.

            Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Ðà Phật.                    

12 - Tế độ trung: Cúng giữa đường, lễ này với ý nghĩa: Trước tiên vì đường sá xa xôi, nghỉ xả hơi cho âm công (người gánh đám) lấy sức, đãi đằng ăn uống. Thứ đến để cho con cháu có dịp lễ lạy tỏ lòng hiếu thảo trong lúc nghỉ giải lao.

13 - Trị huyệt: Một lễ làm tinh sạch huyệt, trước khi hạ quan tài.

Sái tịnh, trị quan, trị huyệt với ý nghĩa dùng nước Cam lồ làm tinh sạch nơi chỗ để xếp đặt thi thể, hay nơi thờ cúng. Còn có nghĩa chúng sanh nào đang ẩn trú vào nơi ấy xin đi nơi khác.

14 - Tạ thổ thần: Lễ khấn vái thổ thần và những hương linh của những ngôi mộ chung quanh. Nay có huơng linh. . . cùng chung cư trú tại địa phận này.

15 - Nhiễu mộ: Lễ này cử hành sau khi an táng xong; bái biệt hương linh, tạ chư Tăng, và quan khách đi dự đám táng.

16 - An linh: Khi về đến nhà, chùa, an vị hương linh để hương khói thờ phụng. Ngày trước đưa về nhà, phải thiết bàn thờ riêng trong hai năm hoặc ít nhất là 100 ngày, sau mới được nhập vào bàn thờ chung với tổ tiên. Ngoài ra còn có lễ đề phan vị, đề thần chú, lễ khai môn (mở cửa mã): sau khi chôn ba ngày làm lễ khai môn để hương linh được phép ra vào.

Ngày trước vấn đề tang chế được xem rất quan trọng nên việc để tang được ấn định rõ ràng từng cấp phải để tang như thế nào, bao lâu đã được ghi trong sách Thọ Mai. Nên có rất nhiều lễ xã tang vào các thời kỳ như: bách nhật, một năm, hai năm, ba năm...
PHẬT GIÁO CÔNG GIÁO VÀ PHONG TỤC TẬP QUÁN VỀ TANG LỄ CỦA NGƯỜI VN
PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA LỄ TANG XƯA VÀ NAY

Lễ tang trong ” Thọ mai gia lễ ” là một tập tục có từ rất lâu, bắt nguồn từ gia lễ thời xưa của Trung quốc. Ngày nay, tập tục này mặc dù đã lỗi thời nhưng vẫn được áp dụng rộng rãi trong nhân dân. Nói đến lễ tang, là ta phải xét đến tôn giáo, tùy theo tín ngưỡng của từng tôn giáo mà có những cách thức tiến hành ” Lễ tang ” khác nhau.
Thật ra, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của KHKT, cùng với những nhận thức tiến bộ về “Sự sống, Vũ trụ”…trong cuộc sống đầy tất bật hôm nay, mấy ai trong chúng ta có đủ thời gian, tiền bạc và đủ tín ngưỡng để có thể thực hiện toàn bộ các tập tục mang ít nhiều màu sắc hủ tục, mê tín dị đoan có từ ngàn xưa. Tuy nhiên, quan niệm sau đây vẫn tồi tại: “Chết không có nghĩa là không còn nữa mà CHẾT chỉ là MẤT” nghĩa là “Một vật (vật chất) vừa MẤT đi tức là nó (linh hồn) vẫn CÒN HIỆN HỮU ở đâu đó”. Thật vậy, trong ký ức của chúng ta vẫn còn đọng mãi hình ảnh của họ, những người thân yêu nhất.
Có ba ngày trọng đại nhất của đời người : Ngày sinh, ngày cưới và ngày chết.
Chúng ta mong muốn tổ chức được một Lễ tang trang nghiêm, chu đáo cho người thân, giảm bớt các hủ tục lỗi thời, đồng thời cũng không nên tổ chức tang lễ quá hao phí.
Lễ nhập liệm
Gần đến giờ nhập liệm, gia đình cần phải chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ đồ cúng (có thể hỏi những người lớn tuổi, các vị Sư, Ban kẻ liệt(nếu gia đình theo Công giáo) hoặc cơ sở dịch vụ tang lễ.
*Phật giáo
+ Chuẩn bị nhang, đèn, lễ vàng mã và toàn bộ đồ lễ (Nhờ bên dịch vụ tang lễ chọn giúp những loại thích hợp và phân làm từng phần: nhập liệm, cúng cơm, động quan, rải dọc đường, hạ huyệt, mở cửa mã…,).
+ Chỗ để quan tài, 2 bàn cúng (một bàn thờ Phật, một bàn ‘vong’), 2 bộ chân đèn, 2 bát nhang, 2 trò, 2 dĩa trái cây, 2 bình bông và cơm, canh dành để cúng cơm (chay hoặc mặn).
+ Lập sẵn danh sách tất cả những người để tang  theo thứ tự từ lớn đến nhỏ với các mục: Họ tên, tuổi (theo Âm lịch), quan hệ với người chết. (Thầy tụng sẽ đọc tên và phát tang trong lễ thành phục).
+ Treo hoặc dán bảng CÁO PHÓ trước cửa nhà ở vị trí dể quan sát. Bạn có thể lấy mẫu Cáo phó (in sẳn) của DV tang lễ, điền vào những thông tin về người chết, ngày giờ nhập liệm, động quan, an táng…Riêng đối với những gia đình không muốn nhận tiền phúng điếu, tràng hoa, lễ vật…thì điền thêm vào Cáo phó. Ví dụ: ”Gia đình xin miễn phúng điếu, tràng hoa cùng lễ vật. Xin cám ơn“.
+ Bắt đầu nhập liệm: Các con đi vào, con trai bên trái, con gái bên phải. Quí Thầy sẽ đọc kinh (nếu không có Thầy, gia đình có thể dùng máy phát thanh). Nhân viên dịch vụ sẽ tiến hành mặc bộ đồ tẩm liệm, quấn vải liệm…Lúc này con cháu quỳ 2 bên, người con trưởng hoặc cháu đích tôn sẽ đến vuốt mắt người chết (nếu không nhắm thì có thể hơ lửa một miếng giấy cho nóng rồi vuốt từ trên xuống) rồi nâng đầu người chết, cùng với nhân viên mai tấng ‘ hạ thổ ‘ 3 lần (nâng tử thi nằm ngang vai rồi từ từ hạ thấp chạm đất), sau đó đặt vào quan tài một cách êm ái, đầu người chết được lót một gối nhỏ (làm bằng bát to gối đầu, hai bát nhỏ kê vai hoặc vải dồn trà hoặc bằng đất sét..).
+ Đồ khâm liệm thường được dùng bằng vải trắng. Nếu người chết lớn tuồi người ta còn dùng vải đỏ phủ lên trên. Dùng nhiều vải được gọi là Đại liệm, dùng ít vải gọi là Tiểu liệm. Để đảm bảo vệ sinh môi trường, các DV lễ tang sẽ dụng túi bảo quản thi hài. Trong quan tài sẽ được nhân viên DV tang lễ chèn đầy bằng trภhoặc bằng bông nhài khô… Sau đó có thể bỏ vào quan tài một số quần áo cũ của người chết (sau khi đã cắt hết cúc).
+ Con cháu đến trước quan tài khấu đầu 2 lạy trước khi đóng nắp Áo quan. Chú ý: tang chủ không nên quá bi lụy, tránh để nước mắt rơi vào trong quan tài.
+ Trường hợp người chết đã cứng lạnh, người co rút không bỏ lọt vào trong Áo quan được, Nhân viên khâm liêm sẽ nắn dần chân tay co duỗi cơ khớp bằng thủ thuật cho thẳng ra kết hợp xoa bóp bằng cồn, rượu…Nếu thi hài to quá, 2 chiếc đủa cả để ở 2 bên mép áo quan rồi cho thi hài lọt xuống dần. Sau khi thi hài đã yên vị, cắt bỏ những dây buộc chân, tay, vai ,mông…để người chết có thể nằm thoải mái.
+ Mọi việc xong thì đậy nắp quan tài lại thật kỹ, đặt ở giữa nhà. Nếu ở nhà còn người lớn hơn thì đặt bên cạnh. Nhân viên dịch vụ sẽ trang trí đèn, lập bàn thờ phật, bàn vong, treo lá triệu (là tấm vải đỏ được viết bằng chử nho từ trên xuống, nội dung gồm tên, tuổi, địa chỉ của người chết…), đặt một cái siêu đất ở dưới quan tài, đổ dầu phộng vào nắp siêu đã được úp ngược, đốt đầu phộng bằng một cọng tim bứt…Dọn bàn vong gồm bát nhang, bình bông, chân đèn, trái cây, trà rượu, một chén cơm đầy có cắm một đôi đũa tre đặt ở giữa, hai bên là hai chén cơm lưng, mỗi chén có cấm một chiếc đũa…Làm lễ thiết linh: là lễ lập linh vị, con cháu đốt nhang vái lạy. Khi chưa chôn cất thì lấy lễ thờ người sống mà tế, do đó mỗi lần lạy chỉ lạy 2 lạy.
+ Lễ thành phục: là lễ phát tang, thường được tiến hành ngay sau khi nhập liệm. Thầy tụng sẽ phát tang hoặc người lớn tuổi trong gia đình tang chủ kết hợp với nhân viên DV lễ tang hướng dẫn con cháu tự mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng. Trước khi thành phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp, mà người hộ tang thay mặc tiếp khách và nói lời thông cảm với khách. Sau lễ thành phục mới chính thức phát tang. Lúc này, thân bằng cố hữu, bà con láng giềng mới đến phúng viếng.
*Công giáo
Theo đạo Công giáo, gia chủ không đặt nặng vấn đề cúng kiến, mà chủ yếu là đọc kinh cầu cho linh hồn người mất. Được sự giúp đở rất nhiệt tình của các vị Trùm và Ban kẻ liệt, gia đình chỉ cần chuẩn bị sẵn đồ tang phục (có một số người mặc đồ tang trườc khi nhập liệm).
Gần đến giờ nhập liệm, bà con Công giáo trong khu sẽ đến cùng gia đình đọc kinh, trước khi Cha Sở đến làm lễ. Đồ dùng tẩm liệm theo Công giáo là: vải trắng (không sữ dụng chiếu, vải đỏ)… Cha Sở làm lễ xong (khi người chết đã được đặt vào quan tài) liền ra về, phần nghi lễ còn lại do các Ông Trùm làm tiếp.
Nghi lễ Công giáo có phần trang nghiêm hơn Phật giáo. Bàn thờ theo Công giáo đơn giản là một bảng tên thánh, bình bông huệ trắng, cây thánh giá … phía sau quan tài treo một tấm vải có thiêu tên giáo xứ, tên thánh của người chết. Trước nhà có treo bốn lá cờ nhỏ có thiêu chử. Ví dụ: Sống gửi thác về.
Lễ động quan Trước kia, tang chủ thường tự mua Quan tài còn hiện nay các Cơ sở dịch vụ tang lễ đảm nhiệm việc cung cấp áo quan, tẩm liệm và làm mọi thủ tục trang trí, bầy biện theo nghi thức Tôn Giáo.
*Phật giáo
Trước giờ động quan, thầy tụng đọc kinh, làm lễ Cáo đạo lộ (còn gọi là lễ Cúng đường). Tang chủ cần hỏi các Sư cùng kết hợp với nhân viên phục vụ lễ tang về cách sắp đặt lễ cúng, đồ cúng tại nhà, nhà tang lễ cũng như tại nghĩa trang, hoặc đài hóa thân hoàn vũ để chuẩn bị cho chu đáo.Tiếp theo là lễ Bái quan: Khi được phép thống nhất của gia chủ, người chấp hiệu (là người chỉ huy) sẽ điều khiển những người thích hợp vào vị trí chuyển cữu.Tang chủ kiểm tra lại đèn nhang. Người chấp hiệu vái lạy, thắp nhang, chỉ đạo đốt vàng mã đốt vàng mã, rải gạo muối...
Theo Phật giáo, khi khiêng quan tài thì tuân theo nguyên tắc đầu quan tài đi trước, chân quan tài đi sau. Các con trai chia nhau cầm bát nhang, hình, bài vị … bước theo các vị Sư đi trước quan tài.Con gái, cháu, chắt … phải đi sau quan tài( đối với người mất là nam), đối với người mất là nữ thì con trai phải đi giật lùi trước linh cữu . Khi linh cữu vừa ra khỏi nhà, gia chủ sẽ cho người đập vỡ cái siêu đất để dưới quan tài (với ý nghĩa là mong cho linh hồn người chết mau được siêu thoát).
Người chấp hiệu sẽ điều khiển cho quan tài quay lại chào nhà lần cuối. Quan tài được hạ đầu xuống ba lần. Ra khỏi nhà, quan tài được khiêng trên vai một đoạn rồi mới đưa lên xe tang. Nếu người chết lớn tuổi, người ta còn tổ chức ‘ đi bộ ‘ một đoạn để những người già có thể đưa tiễn thêm. Đòan đi bộ do các Sư dẫn đầu, tiếp theo là cờ, lộng, một cái bàn có giá để treo tấm triệu, một bàn vong, đi kèm với bàn vong là các con trai, cháu đích tôn…Con cháu mang tang sẽ đi bộ theo sau xe tang. Những người có tang được che bằng Phương du (đó là một tấm bạt lớn, có bốn cây để chống bốn phía, đươc bốn người cầm), theo sau là những người đưa tiển. Nếu gia đình có mời ban nhạc thì ban Nhạc nam đi trước quan tài, ban Kèn tây sẽ đi sau. Đoạn đường ” Đi bộ ” không nên quá dài vì dễ gây cảnh ùn tắc giao thông.
Các gia đình tang chủ có điều kiện đoàn xe tang thường gồm có một xe chở các nhà Sư dẫn đầu. Theo sau là xe chở quan tài và các xe đưa khách chạy sau cùng. Gia đình nên chuẩn bị sẵn một lộ trình thống nhất, thông báo trước cho các tài xế hầu tránh trường hợp đoàn xe bị cắt khúc, lạc đường. Tốc độ của đòan xe nhanh hay chậm do xe dẫn đầu quyết định.
*Công giáo
Lễ động quan theo Công giáo được chia làm hai phần. Đầu tiên, bà con trong họ sẽ đọc kinh trước giờ động quan. Sau đó linh cữu sẽ được đưa vào nhà thờ làm lễ. Thông thường, lúc sinh thời người chết đi lễ tại đâu thì sẽ được Cha Sở của nhà thờ đó làm lễ. Đặc biệt, nếu người chết đã từng làm Cha Sở hoặc người chết là cha, mẹ của Cha Sở hay các vì nữ tu thì sẽ được nhiều Cha đến làm lễ Đồng tế. Người theo đạo công giáo ít khi mời các ban Nhạc nam mà họ thường chỉ sử dụng Ban kèn tây khi đưa tiễn.
1.Tang phục
Ngày xưa, người ta qui định có năm hạng tang chế là: Đại tang (3 năm), Cơ niên (1 năm), Đại công (9 tháng), Tiểu công (5 tháng)…Ngày nay, phong tục này đã được giãm gọn lại rất nhiều. Đồ tang thường được may bằng vải sô (vải mùng) hoặc vải tám màu trắng. Bạn nên nhờ các Trại hòm lo giúp, người ngoài có thể phân biệt ai là con ruột, con rể, con dâu … của người chết.
+ Con trai, cháu đích tôn : Áo, quần, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng và gậy tang (để tang cho cha dùng gậy tre, để tang cho mẹ dùng gậy vong). Riêng một số gia đình Công giáo không sử dụng dây rơm và gậy.
+ Con gái, con dâu: Áo, quần, khăn trùm đầu.
+ Con rể: quần, khăn cột đầu.
+ Cháu nội, ngọai: khăn trắng cột đầu có chấm xanh, đỏ để phân biệt.
+ Cháu cố: khăn vàng cột đầu.
Hiện nay, tùy theo hoàn cảnh từng người mà thời gian để tang thường được kéo dài khoảng từ một năm, 100 ngày, 49 ngày, hoặc ngay sau khi mở cửa mã.
Có một câu hỏi thường được đặt ra là: Trong trường hợp người con chết trước cha mẹ thì cha mẹ có phải để tang cho con không ?
Theo ” Thọ mai gia lễ “, để tang là việc thể hiện tình nghĩa, thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất, người còn. Như vậy, chẳng những thân thích mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang. Cha mẹ có thể để tang con, ông bà cũng có thể để tang cháu.
Tuy nhiên, theo quan niệm phương Bắc ” Phụ bất bái tử ” (cha không lạy con) và con cháu chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã trốn nợ đời. Vì vậy, chẳng những cha mẹ không để tang con mà ngược lại, khi khâm liệm còn phải quấn lên đầu một vòng tang trắng. Cha mẹ có khi vì quá đau buồn, đã ngất lịm đi bên mộ huyệt của con, nên cha mẹ nhiều khi không đưa tang con là đúng.
Ngày nay, người ta thường áp dụng phương cách sau: Cha mẹ không để tang con nhưng vẫn thắp nhang, khi tẩm liệm xong đặt một hoặc hai mãnh khăn trắng lên trước đầu quan tài, thay thế cho việc con phải để tang cha, mẹ sau này (khi cha mẹ mất) trong thời gian để quan tài tại nhà. Thiết nghĩ, đó là việc làm hợp tình hợp lý.
2.Lễ cúng trong đám tang
Bà con theo Phật giáo (hoặc thờ Ông Bà) thường tổ chức nhiều lễ cúng trong đám tang. Trong các đề mục trước ta đã xem qua lễ nhập liệm, lễ động quan, lễ hạ huyệt … Tuy nhiên, sau khi chôn cất xong, người ta còn tổ chức các lễ sau:
3.Lễ tế ngu (lễ mở cửa mã)
+ Tục này không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi chôn. Thực ra, trong điển lễ thì không có ‘ lễ ba ngày ‘ mà chỉ có ‘ lễ tế ngu ‘ gồm có ‘ sơ ngu ‘ – lúc rước linh vị về nhà sau khi chôn; ‘ tái ngu ‘ – sau ngày ‘ sơ ngu ‘ khi gặp được ‘ ngày nhu ‘ (tức là ất, kỷ, tân, quí) và ‘ lễ tam ngu ‘ (sau khi chôn gặp ngày cương – tức là giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Ngày nay, người ta giản lược, kiêm luôn cả ba lễ, chỉ làm lễ tam ngu, vì thế nên gọi là lễ ba ngày hay lễ mở cửa mã. Lễ này tính ba ngày sau khi chôn, đó là vì có nhiều trường hợp sau khi chết bốn năm ngày, thi thể còn để trong phòng lạnh, đám tang chỉ có thể được cử hành nhiều ngày sau khi chết. Vào ngày đó, con cháu sửa lại mã, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước… thắp nhang, đốt giấy vàng mã…Đồ cúng phải có một cái thang tre nhỏ có bảy hoặc chín bậc (theo ‘ nam thất, nữ cửu ‘)… Người dân làm lễ này do các quan niệm :
+ Một người đang sống bình yên, bỗng nhiên mọi họat động bị đình chỉ.
+ Đang nhìn thấy người thân, khi đã nhập quan bỗng nhiên không còn gặp lại nữa.
+ Đang ở trên dương thế nay chết đi thân xác về cỏi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác, âm dương hoàn toàn cách biệt. Sau lễ thành phân, sơ ngu, tái ngu, tam ngu là lễ tế để làm cho yên ổn hồn phách.
4.Lễ cúng thất
+ Đối với các gia đình Việt nam, bữa cơm là giờ phút đầm ấm nhất, hạnh phúc nhất. Nếu trong nhà có người về muộn, mọi người cũng cố chờ để ăn cơm một lúc cho vui vẻ. Nay, bỗng nhiên nhà có người đi xa không bao giờ trở lại. Tục cúng cơm hình thành từ đó. Trước bữa ăn, người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình thường, ở nhà đang ăn gì thì cúng thứ ấy. Sau khi thắp hương, người ta dùng đôi đũa vào giữa bát cơm, rót rượu, khấn vái, rót nước…. Theo thuyết nhà Phật: linh hồn người chết phải qua bảy lần phán xét, mỗi lần bảy ngày đi qua một điện ở âm ty thì vong hồn mới siêu thoát. Tục cúng thất là cúng vào các ngày theo tuần, kể từ ngày mất: 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày, 100 ngày… Làm lễ chung thất (49 ngày) và tốt khóc(100 ngày) không cần phải chọn ngày, cứ đúng ngày qui định trong gia lễ mà làm.
+ Người ta không ai có thể chọn ngày chết, vì vậy từ xưa đến nay, hàng năm cứ đến ngày mất thì làm giỗ, dù cho có năm ngày đó rất xấu. Chẳng lẻ con cháu ở phương xa nhớ ngày về làm lễ, đến nơi thấy khói tàn hương lạnh, lủi thủi ra về sao ?. Tang tế là ngày định sẵn, thân bằng cố hữu ai lưu luyến thì đến thăm viếng, không đợi thiếp mời như lễ mừng.
5.Lễ trừ phục (đàm tế)
+ Sau khi an táng hai năm, người ta chọn một ngày tốt để làm lễ trừ phục. Trừ phục gồm có 3 lễ:
1. Lễ sửa mộ.
2. Lễ đàm tế: Cất khăn tang, hủy (đốt) các thứ thuộc về phần lễ tang, rước linh vị lên bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang, thu cất các bức trướng, câu đối viếng…
3. Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, khi đàm tế ở bàn thứ tang xong thì đốt linh vị cũ. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới.
6.Lễ nào là lễ trọng ?
+ Lễ giỗ: Phong tục các nơi đều thống nhát lấy giỗ cha mẹ là chính (cha mẹ của người tôn trưởng nhất trong nhà).
+ Lễ tang: Phong tục mỗi nơi mỗi khác. Có nơi chú trọng lễ 49 ngày, nơi khác coi lễ 100 ngày là lễ chính, có nơi làm lễ 3 ngày xong xuôi tốt đẹp là được. Đó là có thể trong lúc tang gia bối rối, việc thù đáp đối với thân bằng cố hữu và những người đến hộ tang có nhiều khiếm khuyết nên họ lấy lễ 3 ngày là lễ trọng. Đó xem như là dịp để tang gia tạ ơn những người đã săn sóc cha mẹ mình khi đau yếu và giúp đở gia đình lo xong đám tang. Có nơi coi trọng lễ giỗ đầu (‘Tiểu tường’), có nơi coi trọng lễ giỗ thứ hai (‘Đại tường’).
PHONG TỤC TANG LỄ VIỆT NAM
(Theo Tân Việt: Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam)
1- Dấu hiệu người sắp chết
2- Trong lúc thân nhân hấp hối
3- Làm gì sau khi thân nhân mất
4- Năm hạng tang phục là gì (ngũ phục)
5- Cha mẹ có đưa tang con không?
6- Cư tang
Người sắp chết có những dấu hiệu gì báo trước?
Thật kỳ lạ, xưa nay đã ai chết hai lần đâu mà biết trước rút kinh nghiệm, thế nhưng, có những cụ cao tuổi có kinh nghiệm “Tri thiên mệnh”, biết trước được ngày mất của mình, mặc dầu ngày hôm trước vẫn khoẻ mạnh, thậm chí có người còn tính trước được giờ mất, đánh điện cho con cháu xa về. Trong trường hợp đó gia đình phần nào đã chủ động chuẩn bị tang lễ, nhưng những trường hợp đó rất ít.
Đối với những người già yếu, có những dấu hiệu gì báo trước giờ hấp hối mà ta có thể quan sát được?
– Xem thần sắc: chủ yếu xem hai đáy mắt còn tinh anh không hay đã đục mờ.
– Sờ chân tay xem còn nóng hay đã lạnh, người sắp chết thường lạnh từ đầu đến chân. Có người còn nhận biết mình đã chết đến đâu.
– Mạch rất trầm, có khi người còn sống nhưng không bắt mạch được nữa. Đối với người suy tim, sờ tưởng như tim đã ngừng đập, nhưng vì đập yếu nên không phát hiện được.
– Để một ít bông vào lỗ mũi mà bông không còn động đậy tức là đã tắt thở.
Có người đau ốm lâu dài, bỗng nhiên mạnh khoẻ trở lại rất tỉnh táo, nhiều khi đó là dấu hiệu của ngọn đèn hết dầu loé sáng lên để rồi tắt ngấm. Các cụ già thường bỏ ăn, hoặc là rất muốn ăn nhưng ăn được rất ít trước khi mất.
Cũng có trường hợp, mệnh đã tuyệt nhưng có lẽ vì nuối tiếc con cháu ở xa chưa gặp được, hoặc do được bổ xâm hồi dương với hy vọng trong muôn một có thể qua khỏi hoặc kéo thêm ít giờ để tránh ngày xấu như trùng tang, trùng phục… thì có thể kéo dài thêm chút ít.
Trong những giờ phút thân nhân hấp hối, người nhà cần làm gì?
– Dời người sắp mất sang phòng chính tẩm, đầu hướng về phía Đông.
– Hỏi xem có dặn dò trối trăng gì không
– Đặt thụy hiệu (tức tên hèm) rồi hỏi người đó có đồng ý không.
– Luôn luôn có người túc trực bên cạnh.
– Người có theo tôn giáo thì làm lễ cầu nguyện theo phép của từng tôn giáo.
– Chuẩn bị mọi thứ để tắm gội (làm lễ mộc dục) và khâm liệm (lễ nhập quan).
Sau khi thân nhân mất, gia đình cần làm những gì?
Chúng tôi chỉ nêu lên những việc làm đối những trường hợp người già yếu, mất tại nhà, theo phong tục cổ truyền. Trường hợp mất tại bệnh viện hoặc mất dọc đường, quán trọ, chết vì tai nạn, gươm súng, xe cộ, rắn độc, thuỷ hoả tai, chưa đúng kỳ đáng chết… không đủ điều kiện để thực hiện toàn bộ thao tác và nghi lễ, vậy nên châm chước, tuỳ nghi vận dụng:
1. Lễ mộc dục: (tắm gội)
Lúc tắm gội cho người vừa chết thường vừa để sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít đất ở ông đồ rau, một nồi nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác. Lúc tắm, vây màn cho kín, tang chủ quỳ xuống khóc, người hộ việc cũng quỳ rồi cáo từ rằng; “nay xin tắm gội để sạch bụi trần”, xong phục xuống, đứng dậy. Cha thì con trai vào tắm, mẹ thì con gái vào tắm. Lấy vuông vải dấp vào ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay móng chân,mặc quần áo cho chỉnh. Móng tay móng chân gói lại trên để trên, dưới để dưới, để vào trong quan tài; dao, lược thìa và nước đem đi chôn; rước thi thể đặt lên giường.
2. Sau lễ mộc dục thời gian chưa nhập quan:
Đắp chăn hoặc chiếu, buông màn, đặt một chiếc ghế con phía trên đầu, trên đó đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng một đôi đũa trên bát cơm và thắp hương. Có địa phương còn có tục để thêm một con dao trên bụng, (có lẽ để trừ tà ma hay quỷ nhập tràng).
3. Lễ phạn hàm:
Lễ này theo tục xưa, bỏ gạo và tiền vào miệng tránh tà ma ác quỷ đến cướp đoạt, để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát. Lễ này ngày nay nhiều nơi đã bỏ, có nơi thay thế bằng may một cái túi, trong túi đựng một ít tiền gạo và một vài đồ lặt vặt mà khi sống, người đó hay dùng đến.
Theo “Thọ mai gia lễ”, lễ này được tiến hành như sau:
Lấy ít gạo nếp xát cho sạch, ba đồng tiền mài cho sáng (nhà giàu thì dùng vàng hoặc viên ngọc trai).
Tang chủ vào khóc quỳ, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng: ” nay xin phạn hàm, phục duy hâm nạp”. Người chấp sự lần lượt xướng “Sơ phạn hàm, tái phạn hàm, tam phạn hàm”. Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc một ít gạo và một đồng tiền tra vào mồm bên phải, rồi đến bên trái, cuối cùng vào giữa. Xong, bóp mồm lại, phủ mặt như cũ.
4. Lễ khâm liệm nhập quan:
Các con vào, con trai bên trái, con gái bên phải. Người chấp sự xướng. Tự lập (đứng gần vào), cử ai (khóc cả lên), quỳ. Chấp sự cũng quỳ mà cáo từ rằng “Nay được giờ lành, xin rước nhập quan”. “Cẩn cáo” xong lại xướng: phủ phục (lễ xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng thẳng).
Sau đó các con cháu tránh ra hai bên, người giúp việc quay và đều cầm tạ quan nâng lên để đưa người vào cho êm ái, đặt cho chính giữa quan tài, nếu có hở chỗ nào cần lấy áo cũ của người vừa mất bổ khuyết cho đầy đủ, rồi gấp dưới lên đầu trước, bên trái gấp trước, bên phải gấp sau, trên đầu gấp sau cùng, sơn nẹp đóng lại. Chú ý: Những quần áo của người đang sống, hoặc quần áo mà người đang sống có mặc chung thì kiêng không được bỏ vào áo quan.
Đồ khâm liệm: nhà giàu dùng vóc nhiễu, tơ, lụa; nhà thường dùng vải trắng may làm đại liệm (1 mảnh dọc, 5 mảnh ngang) hoặc tiểu liệm (1 mảnh dọc 3 mảnh ngang). Ngày trước, quy định đại liệm hay tiểu liệm vì khổ vải nhỏ. Ngày nay, dùng vải khổ rộng, miễn kín chân, tay, đầu, gót là được.
“Tục ta nhiều người tin theo thầy phù thuỷ, trong quan tài thường có mảnh ván đục sao Bắc Đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan thường chọn giờ, tránh tuổi rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngoài quan tài. Có người cho là chết phải giờ sấu thì bỏ cỗ bài tổ tôm hoặc quyển lịch hoặc tàu lá gồi để trấn át ma quỷ” (Trích “Việt Nam phong tục”- Phan Kế Bính – tr.31)
Mọi việc xong thì sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt chính giữa gian giữa, hoặc nhà còn người tôn hơn thì đặt sang gian cạnh.
5. Lễ thiết linh: (Sau khi nhập quan)
Là lễ thiết lập linh vị, đặt bàn thờ tang.
Khi chưa chôn cất thì lấy lễ thờ người sống mà lễ, nên mỗi lần lạy chỉ lạy hai lạy, trong linh vị và khăn vấn dùng chữ “Cố phụ”, “Cố mẫu” thay cho “Hiền thảo”, “Hiền tỷ”.
6. Lễ thành phục:
Tức là con cháu mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng. Trước khi thành phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp mà người hộ tang thay mặt tiếp khách và thông cảm với khách.
Sau lễ thành phục mới chính thức phát tang. Sau đó thân bằng cố hữu, làng xã mới đến phúng viếng.
Trường hợp chết đã cứng lạnh, người co rúm không bỏ lọt áo quan thì làm thế nào?
Theo kinh nghiệm dân gian: Hơ lửa và nắn dần cho thẳng ra, hoặc dùng cồn, rượu xoa bóp, nếu vẫn còn cứng lại thì có thuật dùng hai chiếc đũa cả để hai bên mép áo quan rồi cho thi hài lọt xuống dần, khi thi hài dã lọt vào áo quan rồi thì phải cắt bỏ những dây buộc chân, buộc tay, buộc vai, buộc mông để người chết có thể nằm thoải mái.
Năm hạng tang phục (Ngũ phục) là gì?
Theo “Thọ mai gia lễ”, có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ:
1.Đại tang: Trảm thôi và tề thôi.
– Quần áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha.
– Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất.
– Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai).
– Áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang).
Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dài ngắn lệch nhau.
– Con trai chống gậy: Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng.
Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục này. ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế châu Âu, theo ý chúng tôi, tiện hơn.
– Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).
– Vợ để tang chồng.
– Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha.
2. Cơ niên: Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không gậy.
– Cháu nội để tang ông bà nội.
– Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.
– Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
– Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
– Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.
– Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng).
– Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.
– Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu ( con anh em ruột).
– Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
– Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.
– Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
– Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã láy vợ khác cũng vậy).
– Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).
3. Đại công: để tang 9 tháng.
– Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.
– Chú, bác thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
– Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột của chồng
- Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột.
4. Tiểu công: Để tang 5 tháng.
– Chắt để tang cụ. (Hoàng tang: Chít khăn vàng)
– Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
– Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha ( nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang 3 năm như mẹ đẻ).
– Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú bác ruột của cha).
– Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
– Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang).
– Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
– Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
– Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím).
5. Ty ma Phục: Tang 3 tháng.
– Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại : Hồng tang chít khăn đỏ).
– Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức là anh em ruột với cụ nội).
– Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
– Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
– Con để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
– Con để tang nàng hầu của cha.
– Con để tang bà vú (cho bú mớm).
– Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha).
– Chồng để tang vợ lẽ nàng hầu.
– Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
-Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
– Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
– Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng
– Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
– Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
Tang bên cha mẹ nuôi:
– Kỵ bên cha nuôi thì 3 tháng, cụ bên cha nuôi thì 5 tháng, ông bà thì một năm.
– Cha mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc sổ gấu 3 năm có cả gậy.
– Từ ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu 3 năm.
– Ông bà sinh ra mẹ nuôi thì 5 tháng, còn thì đều không có.
Tang họ nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của mình):
– Ông bà sinh ra cha thì 9 tháng.
– Cha mẹ sinh ra mình thì 1 năm có gậy.
– Bác trai bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều 9 tháng. – Cô đã giá thì 5 tháng.
– Anh chị em ruột thì 9 tháng, chị dâu, em dâu thì 3 tháng, chị em đã xuất giá thì 5 tháng.
Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng.
Xét trong lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có, lại trở về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng
Nếu đương để tang cha mẹ được một năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ 3 năm, hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại 3 năm, dù phải chồng rẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ 1 năm mà chồng mới gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn 3 năm.
Trường phục: có ba loại:
– Trưởng trường: Từ 16-19 tuổi
– Trung trường: Từ 12-15 tuổi
– Hạ trường: Từ 8-11 tuổi
(Đều lấy thứ tự giáng một bậc).
Ví dụ: Giai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi là trường được, nhưng vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống 9 tháng, trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng.
Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung trường giáng 5 tháng, hạ trường giáng 3 tháng, các trường hợp khác đều như thế mà suy.
Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?
Tục đội mũ rơm quấn thật to quanh đầu, thắt lưng bằng dây gai, dây chuối ngày nay đã lỗi thời, nhiều nơi đã bãi bỏ, còn tục chống gậy chỉ áp dụng đối với con trai tang cha (gậy tre) tang mẹ (gậy vông),vẫn còn ở nhiều địa phương.
Nguyên do: Đời xưa, đường đi lại còn hẹp, có khi còn phải leo núi cao, người mất được chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong rừng núi, có nơi chôn ở triền núi đá có nhiều hang động. Đã có trường hợp, người con vì quá thương xót cha mẹ, khóc lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì đến sinh mạng của mình, đập đầu vào vách đá, khi leo núi đi về vì thương cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống vực. Để tránh tình trạng trùng tang thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải quấn quanh đầu những vật liệu mềm, xốp để nếu va vấp đỡ gây tổn thương và đặt ra lệ phải chống gậy để đi đứng an toàn hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, giàu nghèo ai cũng có thể tự liệu được và ở đâu cũng có thể kiếm được để làm chất đệm, đó là rơm, lá chuối, dây gai, dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số người, dần dần trở thành phong tục phổ biến.
Vì ngày thường đi lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc đi đứng đều mặc quần áo gọn bó vào người, đến khi có tang tế phải mặc áo dài rộng, dễ vướng gai góc nên phải có dây đai, tục đó cũng xuất xứ từ việc tránh nạn trùng tang.
Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?
Tử biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha mẹ già yếu từ trần, con báo hiếu cha, mẹ, đưa tang bố mẹ là chuyện thường tình. Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, nhiều trường hợp chết non, gây nhiều nỗi đau thương cho bố mẹ. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút xúc động đến cực điểm, có nhiều ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Đã có nhiều trường hợp mẹ chết luôn bên huyệt chôn con. Hơn nữa, ngày xưa, phương tiện và thuốc thang cấp cứu khó khăn, không cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là đúng. Chẳng những cha mẹ mà các ông già bà cả trong nội thân, sức khoẻ đã tàn cũng không được dự đưa tang, sợ vướng đến sức khoẻ
Cha mẹ có để tang con không?
Tang phục là thể hiện tình nghĩa, có phân biệt thân sơ “Họ đương 3 tháng, láng giềng 3 ngày”, thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế, chẳng những thân thích mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang. Theo “Thọ mai gia lễ” thì chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.
“Thọ mai gia lễ” quy định như vậy nhưng một số địa phương Bắc bộ quan niệm “Phụ bất bái tử” (cha không lạy con), Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã chốn nợ đời, chẳng những cha mẹ không để tang con mà khi khâm liệm con còn phải quấn trên đầu tử thi một vòng khăn trắng. Nếu là đàn bà mà tứ thân phụ mẫu còn cả thì phải quấn đến hai vòng, có nghĩa là ở dưới cõi âm cũng để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ đang ở trên dương trần.
Cư tang là gì?
Thời xưa, dẫu làm quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư tang 3 năm trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước ngoài. Lệ này không quy định đối với binh lính và nha lại. Nếu ai vì tham quyền cố vị, giấu diếm không tâu báo để về cư tang, bị đàn hặc vì tội bất hiếu, sẽ bị triều đình sử phạt biếm truất. Trong thời gian cư tang, lệnh vua không đến cửa.
Ba năm cư tang là ba năm chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui, không dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoài chén rượu cúng cha mẹ), không nghe nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nàng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai để nối dõi tông đường, ngoài ra ai sinh con trong thời kỳ này cũng bị coi là bất hiếu. Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ đi hia, thường đi chân không, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc giày cỏ.
Dầu làm đến tể tướng trong triều, khi khách đến viếng cha mẹ mình, bất kể sang hay hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ (hai lạy hay ba vái dài). Khi ra đường, không sinh sự với bắt cứ người nào. ở trong nhà, đối với kể ăn người ở cũng không được to tiếng.
Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với khách bạn, để tỏ lòng thành kính với cha mẹ.
Thời nay không còn lệ cư tang, nhất là các cán bộ chủ chốt càng không có điều kiện nghỉ việc thời gian dài, nhưng biết qua lệ cư tang của ông cha ta ngày xưa, hậu sinh có thể học được điều gì trong thái độ ứng xử?
Phong Tục Tang Lễ Việt Nam, cơ sở dịch vụ tang lễ tư vấn miễn phí phong tục tang lễ việt nam cho gia đình người mất phù hợp với từng tôn giáo riêng biệt, cơ sở mai tang, dịch vụ tang lễ  xe tang lễ, cho thuê xe tang lễ, dịch vụ bốc mộ cơ sở tang lễ